1. Khái niệm chế độ quân chủ

1.1. Khái niệm

Chế độ quân chủ là một hình thức chính thể, trong đó vua là người chủ quyền lực, tất cả quyền lực trong nước thuộc về nhà vua. Vua lên nắm quyền (lên ngôi) thường theo nguyên tắc cha truyền con nối – “con vua thì lại làm vua”. Vua được xem là con trời – thiên tử, “thế thiên hành đạo”, thay trời trị dân hoặc là người nhận sứ mệnh cai quản dân từ thượng đế và cũng vì vậy chịu trách nhiệm trước trời, trước thượng đế, đối với dân, vua không chịu bất kì một trách nhiệm pháp lí nào.

Chế độ quân chủ là hình thức chính thể phổ biến thường thấy trong các nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và, trong một phạm vi hạn chế, cả trong nhà nước tư sản.

1.2. Phân loại

Dựa vào phạm vi quyền hành của nhà vua, chính thể quân chủ được phân làm hai hình thức: quân chủ tuyệt đối (hay quân chủ chuyên chế) và quân chủ hạn chế.

Chế độ quân chủ chuyên chế thường tồn tại ở các nhà nước chủ nô, các quốc gia phong kiến phương Đông do một vị hoàng đế như Tần Thủy Hoàng cai trị, tuy lãnh thổ Trung Quốc lúc bấy giờ rất rộng lớn nhưng vẫn được chia thành các quận do một quan do triều đình bổ nhiệm, các nước thống nhất thành một đế chế tập trung hoặc một hoàng đế vĩ đại. Quyền lực của nhà vua là vô hạn và được chính thức khẳng định trong sổ quân lệnh: nhà vua là một chế độ quân chủ chuyên chế, không phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình trước bất kỳ ai trên thế giới, tự mình có quyền lực đối với đất nước và dân tộc mình. lãnh thổ – nhà nước được coi là một lực lượng toàn năng trong việc kiểm soát mọi mặt đời sống của người dân, làm luật, kiểm tra việc tuân thủ các hành động cũng như các ý kiến, chỉ đạo các hoạt động kinh tế, thậm chí cả cuộc sống hàng ngày của người dân.

Nhà nước quân chủ hạn chế thường thấy trong các nhà nước tư sản, ra đời trên cơ sở của sự thoả hiệp giữa giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc phong kiến. Thời điểm này, giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để lật đổ vương quyền phong kiến, còn tầng lớp quý tộc quan liêu thì vẫn còn lực lượng và có khi lợi dụng tâm lí tôn trọng vương quyền và uy tín của nhà vua để thoả hiệp, duy trì một phần những đặc quyền, đặc lợi. Cũng có trường hợp trước phản ứng mạnh mẽ của đông đảo các tầng lớp nhân dân, giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc tìm thấy trong sự thoả hiệp để có khả năng áp đảo lại quần chúng, thống nhất với nhau duy trì chế độ quân vương hạn chế với sự hạn chế quyền lực của vua bằng một hiến pháp, cũng vì vậy, thường được gọi là quân chủ lập hiến. Trong thời đại ngày nay, phần lớn các nước theo chế độ quân chủ lập hiến đã thành những nhà nước theo chế độ đại nghị, quốc hội, nghị viện giữ quyền lập pháp còn quyền hành pháp nằm trong tay chính phủ, quốc vương chỉ còn vai trò tượng trưng có tính truyền thống. Ví dụ như Vương quốc Anh và một số các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung Anh – Commonwealth of Nations (như Lesotho, Swaziland, Brunei Darussalam, Malaysia, Samo, Tonga). Hiện nay không chỉ nước Anh mà nhiều quốc gia khác trên thế giới, mặc dù tên gọi là quân chủ nhưng lại được đánh giá là nhà nước dân chủ, ví dụ như nhà nước Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Luxemburg, Thụy Điển ở châu Âu hay Nhật Bản ở châu Á. Xét từ góc độ tìm kiếm những cơ sở bảo lãnh cho quyền lực của giai cấp tư sản, duy trì ưu thế chính trị cho giai cấp cầm quyền, chính thể quân chủ lập hiến với quốc vương luôn giữ vị trí của nguyên thủ quốc gia, lúc bình thường chỉ hạn chế vai trò trong tượng trưng tiêu biểu của quốc gia nhưng khi nguy cấp, vẫn có thể trở thành một lực cản chính trị đối với những phong trào cấp tiến có yêu sách thay đổi cơ bản chế độ xã hội.

Hầu hết các quốc gia Quân chủ hiện nay đều theo chế độ Quân chủ lập hiến hay Quân chủ đại nghị, Quân chủ Cộng hòa. Vua (hay Nữ hoàng) là nguyên thủ quốc gia nhưng chỉ mang tính tượng trưng hơn là thực quyền. Còn hoạt động lập pháp do nghị viện nắm giữ, hoạt động hành pháp do thủ tướng nắm giữ, và hoạt động tư pháp do tòa án đảm nhiệm (Tam quyền phân lập).

2. Đặc điểm chế độ quân chủ ở các nhà nước phương Đông cổ đại

Chế độ nhà nước ở các quốc gia phương Đông cổ đại là nhà nước quân chủ chuyên chế (hay quân chủ tuyệt đối) cổ đại vì nó xuất hiện lâu đời nhất, được cai trị bởi một vị vua chuyên quyền. Đây là chính thể duy nhất mà quân chủ nắm thực quyền, không tồn tại Hiến pháp. Thể chế này xuất phát và phát triển mạnh ở các quốc gia phương Đông cổ đại.

2.1. Lịch sử hình thành

Ở các quốc gia cổ đại phương Đông, do nhu cầu sản xuất nông nghiệp, người ta phải liên kết với nhau để khai phá đất đai và làm thủy lợi (trị thủy), một số công xã tập hợp lại thành tiểu quốc, đứng đầu tiểu quốc gọi là vua.

Nhờ kinh tế nông nghiệp phát triển, cư dân phương Đông nhanh chóng bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước ngay từ đầu thời đại đồ đồng. Từ thiên niên kỷ IV đến thiên niên kỷ III Trước công nguyên, các xã hội có giai cấp và nhà nước được thành lập ở các lưu vực sông Nile, Tigris và Euphrates, Indus, Ganges và Hoàng Hà. Xã hội có giai cấp và nhà nước được hình thành từ liên minh bộ lạc, tức là nhiều bộ lạc có quan hệ mật thiết với nhau, liên kết với nhau do nhu cầu trị thủy, khai khẩn thủy lợi. Nhà nước được lập ra để cai trị và quản lý xã hội.

Trong thời phong kiến, nhất là ở các nước châu Á, chế độ quân chủ chuyên chế mang tính chất thế tục hơn, nhưng điều không thay đổi là quân chủ vẫn là người nắm giữ quyền lực tối cao nhưng phải sử dụng bộ máy quan lại phức tạp từ trung ương đến địa phương để điều hành đất nước. Một ví dụ điển hình về chế độ quân chủ chuyên chế thời kỳ này là nước Pháp dưới thời vua Louis XIV. Các vị vua của Pháp trước Louis XIV đã xây dựng một chế độ quân chủ tập quyền ở một mức độ nào đó, nhưng Louis XIV thì mở rộng hơn nhiều. Vào đầu thế kỷ 18, tất cả những người theo chủ nghĩa bảo hoàng và những người chỉ trích ở Pháp và châu Âu đều coi quyền lực của ông là độc đoán. Chế độ quân chủ chuyên quyền của nó cũng được theo sau bởi Nga, Phổ và Áo. Dưới triều đại của vua Peter Đại đế, vị vua cải cách đã xây dựng chế độ quân chủ tuyệt đối của Nga, nắm quyền kiểm soát Giáo hội Nga lúc bấy giờ. Đồng thời, Vua nước Phổ, Friedrich Wilhelm I, tin chắc rằng một vị vua phải khôn ngoan, và phải là người cha có thẩm quyền của quân đội thường trực, mà vị vua chiến binh cổ điển là Frederick II Đại đế – một vị vua rất vĩ đại trong lịch sử nước Phổ.

Trong thời đại của trào lưu triết học Khai sáng mới mẻ (Phong trào duy lý thể kỷ 17 – 18), nền quân chủ chuyên chế Pháp suy yếu trong khi hai nền quân chủ chuyên chế của người Đức là Áo và Phổ thì tiến hành cải cách tiến bộ và chấp nhận lý tưởng Khai sáng, tạo nên một thời đại mới của chế độ quân chủ.

2.2. Quyền hành của nhà Vua

Nhà nước được lập ra để cai trị và quản lý xã hội. Cơ cấu bộ máy nhà nước này mang tính chất của nhà nước tập trung chuyên quyền. Người đứng đầu nhà nước là nhà vua. Nhà vua tự coi mình là đại diện của các vị thần trên trái đất, là người cai trị tối cao đất nước, tự mình quyết định mọi chính sách và công việc, từ đặt ra luật pháp, chỉ huy quân đội đến việc xét xử người có tội.

Có thể hiểu, nếu chức năng của một nhà nước chia ra ba nhánh lập pháp – hành pháp – tư pháp thì nhà vua nắm cả ba quyền này. Quyền lực các nhà vua phương Đông là tập trung, không san sẻ cho bất kỳ ai, bất kỳ bộ máy nào.

Chế độ quân chủ chuyên chế xưa coi quân chủ ngang với thần, quân chủ là hình tượng của thần ở trần gian, lời của quân vương là ý chí của thần vì quân vương là người duy nhất được gặp gỡ và trao đổi với các vị thần. Và thần dân phải thần phục quốc vương như thần linh. Ở Ai Cập cổ đại, Pharaoh (nhà lớn) được coi là hình ảnh của vị thần bầu trời Horus trên trái đất. Hình ảnh trên tấm bia Bộ luật Hammurabi, vị vua này nhận được di nguyện của Thần Công lý Shamash,…. Người Lưỡng Hà gọi nhà vua là Enxi (thủ lĩnh), người Trung Quốc gọi là Thiên Tử (con trời).

Giúp việc cho nhà vua là bộ máy hành chính gồm các quý tộc, đứng đầu là Vidia (Ai Cập) hoặc Tể tướng (Trung Quốc). Bộ máy này thu thuế, xây dựng các công trình công cộng như đền đài, cung điện, đường xá và chỉ huy quân đội.

Vì vậy, hệ thống nhà nước của xã hội có giai cấp đầu tiên ở phương Đông, trong đó vua là người đứng đầu, có quyền lực tối cao, được gọi là chế độ chuyên chế cổ đại. Mọi quyền hành trong đất nước tập trung trong tay nhà vua, tạo nên chế độ quân chủ chuyên chế cổ đại phương Đông.

2.3. Sự khác biệt giữa chế độ quân chủ phương Đông và phương Tây

– Xuất phát điểm:

+ Ở phương Đông, nhà nước phong kiến ​​xuất hiện sớm hơn ở phương Tây, do nhu cầu kiểm soát nguồn nước, tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp và đoàn kết chống ngoại xâm. Quá trình suy vong lâu dài, do sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân, mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã làm cho chế độ phong kiến ​​suy yếu và lâm vào khủng hoảng. Các dân tộc ở phương Đông phải lãnh đạo một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống thực dân, đánh đổ chế độ phong kiến.

+ Ở phương Tây, chế độ phong kiến ​​xuất hiện muộn hơn, được hình thành từ thế kỷ V sau Công nguyên. Nó phát triển rất nhanh và có thời gian suy giảm ngắn. Nhà nước phong kiến ​​ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ là tiêu biểu. Sự hình thành quan hệ phong kiến ​​trong lòng đế quốc Rô-ma là nhân tố cơ bản và quyết định, việc chinh phục các bộ lạc của người Germanic là nhân tố thuận lợi cho quá trình phong kiến ​​hoá. Ở phương Đông, chế độ phong kiến ​​​​nảy sinh trên cơ sở chế độ nô lệ chưa phát triển đầy đủ và chế độ nô lệ gia trưởng.

– Cơ sở kinh tế – chính trị – xã hội – tư tưởng:

+ Cơ sở kinh tế: Ở phương Tây, sở hữu tư nhân về ruộng đất đã phát triển mạnh từ thời cổ đại. Đặc trưng cơ bản của chế độ phong kiến ​​ở đây là kinh tế lãnh thổ, giai cấp lãnh chúa và nông nô, chế độ đẳng cấp dựa trên quan hệ chúa – chư hầu, tình trạng phân quyền kéo dài. Giai cấp bị trị là tá điền (từ phương Đông) so với nông nô (từ phương Tây) thoải mái và ít nghiêm khắc hơn một chút. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản của chế độ phong kiến ​​ở phương Tây nặng nề và gay gắt hơn ở phương Đông.

+ Về chính trị, tư tưởng: chế độ quân chủ phương Đông xuất hiện sớm hơn phương Tây. Sự chuyển đổi từ phân quyền sang tập quyền ở phương Đông và ở Asoka diễn ra sớm. Trong khi đó ở phương Tây, tập trung hóa diễn ra chậm chạp, nhà vua được thị dân giúp đỡ để kết liễu các lãnh chúa phong kiến. Sự can thiệp của tăng lữ phương Tây vào hệ thống chính trị rõ ràng và chặt chẽ hơn phương Đông.

– Hình thức nhà nước:

+ Ở phương Tây, một đặc điểm chung và phổ biến của nhà nước là nhà nước phân quyền. Hình thức quân chủ chuyên chế xuất hiện muộn hơn, tức là vào thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến ​​và chỉ xuất hiện ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban Nha…

+ Ở phương Đông: Hình thức cấu trúc nhà nước phổ biến là tập trung quyền lực, phát triển dưới hình thức quân chủ chuyên chế, chuyên chế cực đoan.

– Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước:

+ Bộ máy nhà nước phong kiến ​​phương Đông thể hiện tính tập quyền cao, vua hay hoàng đế là người nắm mọi quyền lực, quan lại các cấp là bầy tôi của vua, thần dân là quần thần trong triều đình của vua. Hệ thống quan lại được tổ chức ở hai cấp, trung ương và địa phương, với sự phân chia đẳng cấp và nhân sự chặt chẽ. Nhà nước phong kiến ​​Trung Quốc là điển hình của nhà nước phong kiến ​​Phương Đông.

+ Ở phương Tây, điển hình là Tây Âu, trong thời kỳ phân quyền, bộ máy nhà nước trung ương tập quyền vẫn tồn tại nhưng hoạt động kém hiệu quả. Bộ máy nhà nước ở các vùng lãnh thổ rất mạnh, gồm nhiều cơ quan chủ quản nhưng chủ yếu là cơ quan thực hiện. Trên thực tế, các lãnh thổ cũng giống như các nước nhỏ, các chúa trở thành vua trên lãnh thổ của mình, có đầy đủ các quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp, chính phủ, tư pháp, quân sự, luật lệ riêng. Bản chất và chức năng của nhà nước: Như trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến ​​phương đông vẫn có chức năng đặc biệt, nhiệm vụ quan trọng là quản lý nước và tưới tiêu.

– Bản chất của nhà nước phong kiến ​​ở đâu cũng như nhau. Tuy nhiên, ở phương Tây tính giai cấp của nhà nước thể hiện rõ hơn ở phương Tây, mâu thuẫn giai cấp sâu sắc hơn (chúa – nông nô), đời sống tá điền và tá điền ở phương Đông rõ nét hơn ở phương Đông với nông nô. đẹp hơn một chút và ít đòi hỏi hơn.

admin

Share
Published by
admin

Recent Posts

Cách muối măng ngon chua ngọt ngon không nổi váng để được lâu

Không phải cà muối hay dưa chua, thứ mình đang thèm nhất lúc này chính…

2 giờ ago

1 Bát Phở Bao Nhiêu Calo? Phở Gà, Phở Bò Bao Nhiêu Calo?

Bạn có thắc mắc rằng ăn 1 bát phở bao nhiêu calo không? Ăn phở…

8 giờ ago

Cây sâm đất ngâm rượu có tác dụng gì và ngâm thế nào?

Sâm đất từ lâu đã là một vị thuốc quý có công dụng điều trị…

14 giờ ago

3 cách làm nước chấm thịt nướng Hàn Quốc chuẩn như người bản xứ – Digifood

Hàn Quốc là đất nước nổi tiếng với nền ẩm thực độc đáo nổi bật…

20 giờ ago

Ăn gạo lứt có tốt không? 9 tác dụng của gạo lứt mà bạn chưa biết

Gạo lứt là nguồn cung cấp các chất xơ hòa tan giúp giảm hàm lượng…

1 ngày ago

TOP 28 đặc sản Nha Trang làm quà du lịch ngon nức tiếng

Những món quà tặng người thân, bạn bè mỗi khi đi du lịch ở đâu…

1 ngày ago