Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Nguyệt quế
Tên khác: Nguyệt quới; nguyệt quý
Tên khoa học: Laurus nobilis L., thuộc họ thực vật: Long não – Lauraceae. Các tên gọi phổ biến khác trong tiếng Anh: Bay, Bay leaf, Bay leaf laurel, Laurel, Grecian laurel, True laurel, Sweet laurel, Sweet bay, Bay laurel, Wreath laurel, Apollo laurel, Greek laurel, royal bay.
Đặc điểm tự nhiên
Nguyệt quế là cây bụi xanh lâu năm có nhiều nhánh, cây thường có mùi thơm, cao từ 2 – 5 mét (7 đến 16 feet), trong những điều kiện rất thuận lợi cây cao tối đa khoảng 20 mét (66 feet), đường kính lên đến 15 – 40 cm với vỏ nhẵn, mỏng và màu nâu có một tán râm. Lá dày, mịn và có màu xanh đậm, sáng, mọc so le, có cuống ngắn, hình mác, mép nhẵn và lượn sóng; lá dài 29 – 30 cm chứa 24 lá chét hình mác, dài 4,8 – 4,9 cm, rộng 1,7 – 1,8 cm với cuống lá dài 0,5 cm. Hoa đực và hoa cái nhỏ màu vàng, có mùi thơm; hoa có bốn thùy, có 8 đến 12 nhị đực và hai đến bốn nhị cái. Quả kết thành từng chùm nhỏ, hình trứng, quả mọng đen có gai, dài 10 – 15 mm, bên trong chứa một hạt.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây nguyệt quế trồng được ở nhiều điều kiện sinh thái và khí hậu khác nhau. Điều kiện tốt nhất để cây phát triển nhanh chóng là nơi có đất cát, ẩm ướt có một lượng nước lớn hoặc một số điều kiện khí quyển ẩm gần với bờ biển. Khi thời tiết ấm hơn, lá có thể bị cháy nắng; vì thế cây ưa bóng nắng một phần, đất cát thoát nước tốt, có độ ẩm và khoảng pH từ 4,5 – 8,2 được ưa chuộng hơn. Cây sẽ trổ trái màu đen và những bông hoa màu trắng hơi vàng ở những vùng ấm hơn. Nhiệt độ dưới 28°F và đóng băng trên diện rộng sẽ làm chết cây.
Cây nguyệt quế đang phát triển rộng rãi ở các nước sau: Ấn Độ, Pakistan, các nước Đông Nam Á khác, một số đảo Thái Bình Dương, Úc, xung quanh bờ biển Địa Trung Hải và Nam Âu, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Algeria, Maroc, Bỉ, Trung Mỹ, Mexico, Nam Hoa Kỳ và quần đảo Canary.
Ở Meghalaya – một bang Đông Bắc Ấn Độ, sản lượng lá nguyệt quế dao động từ 30 đến 70 kg mỗi cây mỗi năm, nhưng ở Nepal, mức trung bình là 13 kg lá khô. Khoảng 900 tấn lá nguyệt quế được sản xuất ở huyện Udaipur, và 2.100 tấn được xuất khẩu bởi Nepal sang Ấn Độ. Các khu vực Aegean – bờ biển thuộc Hy Lạp và Đông Địa Trung Hải là những khu vực thu hái lá nguyệt quế lớn nhất để xuất khẩu. Thổ Nhĩ Kỳ đã xuất khẩu 4.869 tấn lá nguyệt quế sang Hoa Kỳ vào năm 2002.
Lá nguyệt quế có thể được thu hái bất kì thời điểm nào trong năm từ một cây trưởng thành hoàn toàn. Lá nguyệt quế tươi có vị đắng và hăng, do đó lá cần được làm khô trước khi sử dụng. Sau khi hái lá, nên để 48 – 72 giờ cho khô. Lá tươi khô có hương vị tốt hơn và sâu hơn. Tránh thu hoạch khi cây còn ẩm ướt.
Nguyệt quế được tiêu thụ theo nhiều cách và dùng cho nhiều mục đích khác nhau. Ngoài lá tươi, các dạng chế biến phổ biến khác bao gồm toàn bộ lá khô, lá đông lạnh, bột và tinh dầu chiết xuất. Lá có thể được bảo quản đông lạnh để sử dụng trong thời gian dài hơn thời hạn sử dụng tươi của nó. Để làm khô lá nguyệt quế, có nhiều phương pháp làm khô khác nhau.
Theo truyền thống, nó được làm khô ngoài trời trong 10 – 12 ngày. Phơi nắng có một số nhược điểm như mất màu tự nhiên và mất tinh dầu dẫn đến giá trị thị trường của lá nguyệt quế thấp. Làm khô bằng không khí nóng ở 60°C là phương pháp tốt nhất để sản xuất lá nguyệt quế. Chưng cất bằng hơi nước là phương pháp tốt nhất để thu hồi tinh dầu từ cây lá nguyệt quế. Tinh dầu chiết xuất từ lá nguyệt quế có hai dạng, dầu cố định và dầu bay hơi, được thu thập từ quả nguyệt quế.
Bộ phận sử dụng
Lá và quả.