Đứng trước những thách thức to lớn từ hậu quả của biến đổi khí hậu, có nhiều giải pháp đã được triển khai để giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, đảm bảo môi sinh – môi trường. Giải pháp về tài chính, trong đó có chính sách tín dụng xanh, được xem là hiệu quả, từ đó góp phần hướng tới phát triển kinh tế bền vững. Để tín dụng xanh có thể phát huy hết tiềm năng trong tương lai, các ngân hàng và doanh nghiệp phải có những cam kết thực sự mạnh mẽ. Bên cạnh đó, để đi đến thành công, cần có sự hỗ trợ chặt chẽ của nhiều bộ, ban, ngành như: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ…
Tín dụng xanh với tăng trưởng bền vững
Môi trường và phát triển có mối quan hệ vô cùng đặc biệt, môi trường là đối tượng và cũng chính là địa bàn để phát triển, trong khi đó, phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Trong mối liên kết đặc thù giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, ngân hàng đóng vai trò như một mắt xích trung gian, tác động gián tiếp đến môi trường thông qua hoạt động của khách hàng. Trong hệ thống ngân hàng, công tác quản lý môi trường có nhiều nét tương đồng với quản lý rủi ro. Việc kiểm soát chất lượng danh mục các khoản vay không những giúp ngân hàng giảm thiểu một cách tối đa tổn thất có thể xảy ra, mà còn gia tăng giá trị sinh lời cũng như uy tín cho ngân hàng. Do đó, một trong những trách nhiệm của ngân hàng là tích cực và chủ động quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong điều hành hoạt động nội bộ, đồng thời chủ động tìm kiếm và khai thác những sản phẩm và cơ hội kinh doanh thân thiện với môi trường.
Tín dụng xanh chỉ những khoản tín dụng mà ngân hàng cấp phát cho các dự án sản xuất – kinh doanh không gây rủi ro hoặc nhằm mục đích bảo vệ môi trường. Với mục đích hướng tới các dự án tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo và công nghệ sạch, các sản phẩm tín dụng xanh góp phần đem lại những lợi ích to lớn về phát triển nền kinh tế hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững. Vì vậy, phát triển dòng tín dụng xanh là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Các định chế tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Công ty Tài chính quốc tế (IFC), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã có bộ tiêu chuẩn về môi trường xã hội mà các dự án và đối tác vay vốn hoặc nhận tài trợ của họ phải tuân theo, trong đó phải kể đến “nguyên tắc xích đạo”. Nguyên tắc xích đạo là bộ tiêu chuẩn mang tính chất tự nguyện cho ngành dịch vụ tài chính, nhằm xác định, đánh giá và quản lý các rủi ro môi trường, xã hội trong các dự án một cách hệ thống và liên tục, được xây dựng trên cơ sở tham khảo các chuẩn mực hiện có và nhu cầu của các nhà đầu tư tài chính. Các định chế tài chính áp dụng bộ nguyên tắc này với mong muốn đảm bảo các dự án họ tài trợ, tư vấn, sẽ được triển khai có trách nhiệm đối với xã hội, quản lý môi trường bền vững, đồng thời vẫn mang lại những kết quả kinh tế tích cực. Hoa Kỳ là một trong những cường quốc tiên phong với việc ban hành Đạo luật Bồi hoàn môi trường toàn diện (CERCLA), quy định trách nhiệm của tất cả các bên liên quan, bao gồm doanh nghiệp gây ô nhiễm và các ngân hàng cho các công trình, dự án gây ô nhiễm vay vốn.
Tại Việt Nam, việc ra đời Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 của NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đã cho thấy một động thái tích cực mang tầm cỡ quốc gia nhằm thực hiện kế hoạch tăng trưởng xanh của toàn nền kinh tế. Nội dung của Chỉ thị số 03/CT-NHNN nêu rõ, hoạt động cấp tín dụng của ngành Ngân hàng cần chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, năng lượng; cải thiện chất lượng môi trường và bảo vệ sức khỏe con người, đảm bảo phát triển bền vững. Đối với các tổ chức tín dụng, Thống đốc NHNN yêu cầu chủ động triển khai xây dựng chương trình, chính sách tín dụng xanh, nhằm tăng dần tỷ trọng tín dụng xanh trong cơ cấu danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng; khuyến khích nghiên cứu xây dựng và triển khai các giải pháp quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Hằng quý, các tổ chức tín dụng phải báo cáo kết quả triển khai tăng trưởng tín dụng xanh.
Một trong những điểm sáng đáng chú ý là chính sách tín dụng xanh của Ngân hàng Chính sách xã hội thông qua việc thực hiện chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Chương trình đã mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác bảo vệ môi trường, cải thiện môi sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân vùng nông thôn. Với chương trình này, các hộ nghèo khu vực nông thôn được vay tối đa 6 triệu đồng (mức cũ 4 triệu đồng) với lãi suất ưu đãi để xây dựng một công trình nước sạch hoặc vệ sinh, tối đa 12 triệu đồng cho cả hai công trình, thời hạn vay 5 năm kể từ ngày giải ngân. Trong những năm gần đây, nhiều ngân hàng trong nước đã bắt đầu quan tâm tới tín dụng xanh như VietinBank, Techcombank, ABBank, Sacombank… Xu hướng tín dụng hướng tới phát triển toàn diện và bền vững được dự báo sẽ tăng mạnh hơn trong thời gian tới nhờ sự hỗ trợ về chính sách của cơ quan quản lý.
Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế đứng trước sức ép lớn từ các nước thành viên, sự lo ngại về tình trạng hàng hóa trong nước không thể cạnh tranh với các sản phẩm quốc tế đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc chủ động mở rộng và nâng cao chất lượng các sản phẩm nội địa. Tuy nhiên, những cải tiến về chất lượng cần phải song hành với chuyển đổi, nâng cấp mô hình hoạt động, nhằm đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường theo đúng hướng đi bền vững của nền kinh tế trong thời đại mới. Hiện nay, đa phần các doanh nghiệp trong nước đều trong tình trạng thiếu vốn, hàng loạt dự án, mô hình phát triển bền vững chưa thể triển khai vì cung ngân sách hạn hẹp. Nguồn lực cho tài chính xanh đang trở nên hết sức cần thiết. Kinh nghiệm từ các nước trên thế giới cho thấy, những dự án tăng trưởng xanh thường gặp phải những khó khăn từ việc huy động vốn do Nhà nước chỉ đáp ứng được một phần nhỏ, còn lại là vốn tự có hoặc huy động từ các kênh khác. Do đó, đây chính là “mảnh đất” đem lại nhiều lợi ích bền vững cho các tổ chức tín dụng (lợi nhuận, uy tín…), các doanh nghiệp được vay vốn, cũng như cho cộng đồng. Đây cũng là dư địa thực tế mà các ngân hàng thương mại cần để tâm, nhất là trong bối cảnh thanh khoản và vốn đầu vào ngày càng tích cực.
Nhiều khó khăn và thách thức
Mặc dù có tiềm năng rất lớn và mang lại cơ hội đổi mới công nghệ cho nền kinh tế, tuy nhiên hiện nay, tín dụng xanh vẫn gặp phải nhiều trở ngại. Luật pháp Việt Nam chưa có các quy định đầy đủ liên quan trực tiếp đến việc các ngân hàng cần phải cân nhắc tới những rủi ro về môi trường và xã hội đối với những khoản vay tín dụng. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật chỉ tập trung vào trách nhiệm của những đơn vị trực tiếp gây ô nhiễm, dẫn đến tâm lý chủ quan của các cán bộ tín dụng. Việc kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu thẩm định tín dụng có thể hạn chế những rủi ro về mặt môi trường và xã hội, thông qua việc quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay vốn đối với những dự án có những dấu hiệu xấu. Do đó, một quy định có tính chất pháp lý đóng vai trò rất quan trọng để xác định những trách nhiệm liên đới của các ngân hàng trước sự cố môi trường. Từ đó, các ngân hàng sẽ phải cẩn trọng hơn trước những quyết định cho vay của mình để tín dụng vừa có thể đến tay nhà đầu tư, vừa đảm bảo được những điều kiện ràng buộc với pháp luật về các tiêu chí xanh, thân thiện với môi trường sống.
Theo khảo sát của IFC, tại Việt Nam, các nhóm doanh nghiệp chịu mức độ rủi ro môi trường, xã hội cao nhất là khai khoáng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp trong ngành chế biến, xây dựng và nông – lâm nghiệp. Nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm thị phần khách hàng lớn, tuy nhiên, việc quản lý rủi ro tín dụng đối với nhóm khách hàng này lại chỉ tập trung vào các rủi ro cốt yếu mà chưa xem trọng đến việc quản lý rủi ro về môi trường, xã hội; mặc dù vấn đề này còn gặp nhiều thách thức như: Thiếu năng lực thể chế, thiếu thông tin về khách hàng và cam kết từ đội ngũ quản lý cấp cao, năng lực đánh giá rủi ro của các cán bộ ngân hàng còn hạn chế…
Tác dụng của hệ thống quản lý rủi ro không thể nhìn thấy trong ngắn hạn, ngay cả khi đã có một hệ thống quản lý rủi ro môi trường cơ sở, các ngân hàng vẫn phải đối mặt với những khó khăn khi bắt đầu thực hiện việc quản lý rủi ro môi trường như: Chi phí hành chính để xây dựng và duy trì hệ thống quản lý; chi phí thuê chuyên gia tư vấn; chi phí đào tạo cán bộ quản lý cho những dự án có rủi ro cao… Do đó, các ngân hàng vẫn chưa áp dụng nghiêm túc và triệt để các nội dung quản lý.
Hiện nay, một số ngân hàng thương mại Việt Nam có hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội, trong đó có hai ngân hàng sử dụng bộ tiêu chuẩn của IFC (Techcombank, Vietinbank), một ngân hàng (Sacombank) có tham khảo bộ tiêu chuẩn này nhưng cũng xây dựng chính sách riêng của mình. Việc áp dụng quản lý rủi ro môi trường, xã hội là một hành trình dài hướng tới phát triển bền vững, tuy nhiên để thực hiện được điều này không chỉ cần chủ động tổng hợp nguồn lực nội tại của các ngân hàng, mà còn cần sự chỉ đạo từ các cơ quan cấp cao, các đối tác và sự hợp tác từ các khách hàng của ngân hàng cho vay vốn.
Những lợi ích về tín dụng xanh đối với công tác bảo vệ môi trường là rất lớn, tuy nhiên, tại Việt Nam, hoạt động này còn mới, giải pháp về tài chính xanh còn ít, chưa có giải pháp ngân hàng xanh trong chiến lược tăng trưởng xanh. Các ngân hàng thương mại truyền thống chưa sẵn sàng cung ứng sản phẩm và dịch vụ tài chính xanh.
Công ty Tài chính quốc tế đã phối hợp với NHNN tiến hành khảo sát thực tế về quản lý rủi ro môi trường và xã hội trên 54 tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, tập trung vào các vấn đề chính như: Nhận thức, hiểu biết của các tổ chức tín dụng về vấn đề môi trường, xã hội; xây dựng chính sách và quy trình quản lý rủi ro môi trường, xã hội; so sánh hoạt động quản lý rủi ro môi trường và xã hội ở Việt Nam với các thông lệ quốc tế… Kết quả cho thấy, 89% số ngân hàng tham gia khảo sát không biết đến bất kỳ tài liệu hướng dẫn hay tiêu chí nào về quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong ngành Tài chính; 93% các ngân hàng cho rằng cần phải có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Nguồn vốn cần để thực hiện tín dụng xanh rất lớn và không phải tất cả các ngân hàng đều tích cực tham gia. Những dự án thân thiện với môi trường thường đi cùng với những khó khăn gây bất lợi cho các ngân hàng như: Thời hạn dài, tài sản bảo đảm không đủ chắc chắn, khoản vay lớn, yêu cầu năng lực thẩm định cao… Do đó, các ngân hàng thường có tâm lý e ngại trước một dự án tín dụng xanh với nhu cầu vốn đầu tư lớn. So với các sản phẩm truyền thống, tín dụng xanh có tỷ lệ rất nhỏ và hầu như không đáng kể trong cơ cấu các sản phẩm tín dụng của ngân hàng.
Nguồn tài chính cho các chính sách tín dụng xanh hiện nay chủ yếu đến từ Quỹ ủy thác tín dụng xanh, với sự tham gia của các bên trong và ngoài nước. Các ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia như ACB, Techcombank và VIB chỉ đóng vai trò đánh giá khách hàng về hiện trạng tài chính, đàm phán và thiết lập các điều kiện cho vay với doanh nghiệp, quản lý việc giải ngân và thu hồi vốn vay, khai thác nguồn khách hàng mới và tập trung quảng bá…, còn việc cấp ngân sách cho quỹ do Cục Kinh tế liên bang Thụy Sỹ thực hiện. Những dự án được xem xét buộc phải tuân thủ nghiêm những tiêu chí về quy mô doanh nghiệp, hình thức sở hữu, tình trạng doanh nghiệp, ngành nghề, quy mô tín dụng… Mặc dù có những ngoại lệ trong quá trình xét duyệt nhưng số lượng doanh nghiệp nhận được hỗ trợ còn rất khiêm tốn. Nguồn cung ít không thể đáp ứng được cầu về tín dụng xanh cho các doanh nghiệp, bài toán về vốn vẫn còn là trăn trở không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với cộng đồng các ngân hàng.
Cần có những giải pháp cụ thể
Ngân hàng Nhà nước cần có giải pháp cụ thể trong kế hoạch tín dụng xanh thông qua việc xây dựng những chiến lược mang tính dài hạn, các chính sách hỗ trợ để tín dụng xanh phát triển mạnh hơn nữa trong thời gian tới. NHNN cũng nên phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường để xây dựng bộ tiêu chuẩn đầy đủ về môi trường cho các ngành nghề, lĩnh vực để các ngân hàng có căn cứ thẩm định, đánh giá tác động về môi trường, xã hội theo các quy định trong thẩm định rủi ro. Ngoài ra, NHNN có thể thông qua các công cụ của mình để khuyến khích các ngân hàng thương mại cùng tham gia hỗ trợ phát triển tín dụng xanh như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc có những ưu đãi đối với các ngân hàng có tỷ trọng tổng dư nợ tín dụng xanh cao; điều chỉnh tỷ lệ quy đổi của khoản dư nợ tín dụng xanh xuống mức thấp hơn khoản tín dụng khác khi tính toán tài sản có rủi ro; tăng tỷ lệ nợ xấu cho phép của ngân hàng phát triển tín dụng xanh nhằm khuyến khích các ngân hàng thương mại dành vốn cho vay các dự án, phương án xanh của khách hàng; sản phẩm tín dụng cần được thẩm định đầy đủ về rủi ro môi trường, xã hội…
Các ngân hàng cũng cần chú trọng việc nâng cao, bồi dưỡng trình độ cán bộ, phát triển năng lực đội ngũ quản lý thông qua các chương trình đào tạo, các hội thảo có sự tham gia của các nước đã có kinh nghiệm về tín dụng xanh trên thế giới. Công tác truyền thông cũng nên được đẩy mạnh để các thông tin, chính sách về tín dụng xanh đến gần với các cán bộ và doanh nghiệp có nhu cầu được cập nhật.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần nghiên cứu về bảo lãnh cho các dự án đầu tư xanh; hoàn thiện những quy định hiện hành theo hướng khuyến khích các ngân hàng triển khai tín dụng xanh, đồng thời phối hợp với các nhà tài trợ để học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Các đóng góp, thành tựu về tín dụng xanh cần được ghi nhận và tuyên dương để các ngân hàng có thêm động lực thực hiện.
Theo NHNN, đến hết quý IV/2016, dư nợ tín dụng xanh đạt khoảng 84.781 tỷ đồng, tăng 19,7% so với cuối năm 2015 và tăng 4,4% so với cuối quý III/2016, chiếm 1,5% so với tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế, với khoảng 3,2 triệu hợp đồng tín dụng; dư nợ tín dụng đã được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt khoảng 187.953 tỷ đồng, với 129.083 hợp đồng tín dụng.
Chí Tâm